Sách là nguồn kiến thức vô tận
giúp ta hiểu biết được nhiều điều trong cuộc sống về những danh nhân, anh hùng,
trong đó có vị cha già kính yêu của dân tộc ta. Sau đây em xin giới thiệu cuốn
sách do tác giả Lường Thị Lan sưu tầm và biên soạn. Cuốn sách có tựa đề “Chuyện
kể Bác Hồ với Nông Dân”
Trong sự trọn vẹn của con người
Hồ Chí Minh, có sự trọn vẹn về tình cảm, quý trọng, tin tưởng và nhất mực
thương yêu nông dân- những người suốt đời chân lấm tay bùn, làm ra của cải nuôi
sống xã hội, có nhiều đóng góp cho cách mạng. Ra đi tìm đường cứu nước trong
những năm 20 của thế kỷ trước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ chí Minh đã chỉ ra con đường
duy nhất để giải phóng giai cấp nông dân là con đường cách mạng vô sản, gắn
liền giải phóng dân tộc với giải phóng nhân dân, trong đó có nông dân, đem lại
ruộng đất cho nông dân. Cho đến bản di chúc để lại cho muôn đời sau, người cũng
đã dành những dòng xiết bao triều mến, ân cần, quan tâm sâu sát đến giai cấp
nông dân: “ Trong bao năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế
quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã luôn luôn hết sức trung
thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp của góp người, vui lòng chịu đựng
mọi khó khăn gian khổ. Nay ta đã hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn thuế
nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã
nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn
khởi, đẩy mạnh sản xuất”.
Đã có nhiều câu chuyện kể về
tình cảm của chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho giai cấp nông dân. Đến với người
nông dân là Bác đến với những người chân lấm tay bùn, cho nên Bác cũng tát
nước, đạp guồng chống hạn với nhà nông, Bác thăm hệ thống đê điều, hỏi han nông
dân ngay trên cánh đồng đang gặt; Bác vào thăm những chuồng trại gia súc, gia
cầm, thăm bếp ăn, giếng nước, Bác vào nhà trẻ, mẫu giáo ở nông thôn để xem con
em nông dân có được trông coi cẩn thận, có đủ chế độ dinh dưỡng hằng ngày hay
không....
Cuốn sách “Chuyện kể Bác Hồ với
nông dân” là một tập hợp có chọn lọc các bài nói, bài viết, buổi gặp gỡ, chuyến
công tác, hình ảnh sống động, câu nói chân thực, các chuyện kể cảm động của
những nhân vật từng có dịp được tiếp xúc với Bác Hồ, được Người quan tâm, thăm
hỏi, động viên. Hưởng ứng cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh, cuốn sách nhỏ mà ý nghĩa lớn này sẽ trở thành nguồn động viên quý
giá để giai cấp nông dân Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò cách mạng to lớn
của mình, nâng cao hơn nữa vị thế trong công cuộc tiếp tục đổi mới, xây dựng
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mời các bạn đọc thêm những mẫu chuyện về " Bác Hồ với Nông dân"
Được cấp trên cho biết Bác Hồ
sẽ về thăm Hợp tác xã cấp cao Vĩnh Thành, huyện Yên Thành, lãnh đạo Đảng, chính
quyền và Ban chủ nhiệm Hợp tác xã đều lo toan chuẩn bị. Nào là bố trí làm tổng
vệ sinh khu vực làm việc của Đảng ủy, ủy ban và trụ sở Hợp tác xã. Cuộc họp
lãnh đạo nhất trí là phải thông báo cho dân biết tin này để cùng chuẩn bị đón
Bác. Thế là Ban Chủ nhiệm Hợp tác xã phân công cán bộ đến từng nhà dân ở gần trụ sở ủy ban và gần nơi
đón Bác. Những nhà gần đó đều được xã cử thanh niên đến sửa soạn lại trong nhà
sao cho ngăn nắp. Có 4 gia đình ở gần hội trường nhất thì cho người mượn thêm
tủ, bàn ghế sang trọng ở những nhà khác xa hơn đưa đến đặt vào, để khi Bác đến
sẽ thấy đời sống của dân ở đây khấm khá thật.
Thế là ngày hôm sau, Bác
Hồ đã đến thăm Hợp tác xã Vĩnh Thành. Sau khi nói chuyện xong với cán bộ
và nhân dân, Bác nói cho Bác đi thăm một số gia đình. Lãnh đạo xã mời Bác đi và
dẫn Bác theo con đường có mấy nhà đã chuẩn bị trước. Ra khỏi hội trường đi được
khoảng mươi mét đến ngã ba đường làng, ông Chủ tịch xã chỉ mời Bác đi đường
này. Nhưng Bác xoa tay nói: "Để Bác tự đi để biết đúng thực tế, có lẽ ở đó
các chú đã bố trí rồi". Thế là Bác Hồ đi theo con đường khác. Bác đi vào
nhà một gia đình bình thường có ngôi nhà tranh nhỏ bé. Trong nhà chỉ có một cái
sập nhỏ đựng lúa làm bàn thờ và hai cái giường gỗ nhỏ cũ kỹ. Sau khi nói chuyện
và hỏi thăm bà già đang ngồi bồng cháu trên chiếc võng, Bác lại đi thăm một số
gia đình khác.
Trích theo sách: Tư tưởng lớn
qua những câu chuyện nhỏ, Nxb Nghệ An, 2005
Bác hướng dẫn làm kinh tế thời
kháng chiến
Thời gian rỗi, Bác cùng anh em
trong cơ quan chơi bóng chuyền, tập thể thao, tăng gia sản xuất, trồng bí trồng
bầu, nuôi gà, nuôi bò. Trong thời gian này, Bác nảy ra ý quản lý kinh tế theo
phương thức khoán sản phẩm. Bác bảo các đồng chí, giao bò cho dân địa phương
nuôi, khi bò phát triển thì một phần để lại cho nhân dân còn một phần cho tập
thể. Trồng được nhiều bí, cả một bãi rộng dày đặc quả, khi thu hoạch anh em
kiểm số lượng quả vì nhiều nên bị lẫn liên tục, Bác bày cho cách: Đếm xong quả
nào cắm một que tre, khi cắm hết chỉ cần gom số que là ra số quả tăng gia được
và giao cho người quản lý.
Trích theo sách: Những kỷ niệm
cảm động về Bác Hồ
, Nxb Văn hóa thông tin, H.2008
, Nxb Văn hóa thông tin, H.2008
Biết mực nước lụt thường
xuyên như chỉ huy nắm địch
Vào mùa nước sông Hồng đang
lên, Bác cho gọi đồng chí Thứ trưởng Bộ Thuỷ lợi lên hỏi: Chú cho Bác biết mực
nước sông Hồng lên bao nhiêu?" "Thưa Bác tối qua mực nước là..."
Bác ngắt lời: "Tối qua Bác biết rồi, Bác muốn biết lúc này là bao
nhiêu?". Đồng chí Thứ trưởng không trả lời được, Bác nghiêm giọng nói:
"Thủy - hỏa - đạo - tặc, giặc lụt tai hại bao nhiêu chắc chú đã biết rõ,
vậy sao chú nắm tình tình không sát, phải như Bộ Chỉ huy nắm địch ấy.
Trích theo sách: Những kỷ niệm
cảm động về Bác Hồ
Nxb Văn hóa thông tin, H.2008
Nxb Văn hóa thông tin, H.2008
“Trăm năm trong cõi người ta,
Chống úng thắng lợi mới là
người ngoan”.
Đó là một sáng tháng 8 năm
1962, tất cả xã viên và cán bộ Mai Xá đang dồn hết sức mình ứng cứu lúa trên
trận tuyến dài gần một cây số ở cánh đồng Sao. Hàng trăm chiếc gầu, hàng chục
chiếc guồng nghiêng đồng đổ nước ra sông. Bác đến rất bất ngờ. Cả công trình
chống úng của Mai Xá tưng bừng nhộn nhịp hẳn lên trong niềm vui được đón Bác.
Mọi người chạy xô lại phía Bác. Bác bước tới dáng hồng hào khoẻ mạnh. Người mặc
bộ quần áo gụ giản dị, đầu đội mũ cát, chân đi đôi dép cao su. Đến một chiếc
guồng nước của hai cô xã viên, Bác bước lên và cùng đạp guồng với đồng chí Bí
thư tỉnh uỷ. Sau đó Bác nói chuyện với bà con xã viên. Bác căn dặn tất cả mọi
người phải đoàn kết chống úng đẩy mạnh sản xuất. Và Bác đọc một câu lẩy kiều:
“Trăm năm trong cõi người ta,
Chống úng thắng lợi mới là người ngoan”.
Giọng nói của Bác ấm áp đã đi
sâu vào trong tâm trí mọi người. Cuộc gặp gỡ diễn ra hơn một giờ đồng hồ. Sau
đó Bác ra về. Xã viên Mai Xá nhìn theo Bác lòng đầy lưu luyến. Tất cả mọi người
đều muốn được mãi mãi nhìn Bác, nghe những lời dạy dỗ của Bác như lời người cha
hiền từ dạy bảo con cái. Và từ hôm đó mọi người cùng nêu cao quyết tâm thực
hiện lời dạy của Bác hăng hái chống úng đẩy mạnh sản xuất. Ngay vụ mùa đó cánh
đồng Sao, cánh đồng hay ngập úng của xã Mai Xá mà Bác cùng guồng nước với mọi
người đã đạt năng suất 3 tấn một héc ta.
Trích theo sách: 118 chuyện kể
về Bác Hồ, Nxb Lý luận chính trị, H2008
Bác là người lao động
Vào khoảng cuối năm 1953, đầu
năm 1954, tuy đã ở trong ATK (an toàn khu) nhưng đội bảo vệ của Bác vẫn đào hầm
sâu trong núi để đề phòng giặc. Anh em không quen nên làm việc có phần lúng
túng. Bác đến và làm động tác mẫu quai búa cho đồng chí phụ trách búa xem. Rồi
Bác lấy một thanh tre bánh tẻ làm kẹp cây “choòng” cầm chống, ra lệnh cho người
quai búa cứ quai cho đều tay. Sợ Bác mệt, anh em nói:
- Thưa Bác, chúng cháu
hiểu rồi ạ.
Đến lúc anh em tranh cãi
về tăng gia, Bác lại “tham gia”. Có anh phát biểu nên trồng cà, anh thì bảo nên
trồng rau muống cạn. Bác hỏi:
- Các chú đều là nông dân
phải không?
- Dạ, chúng cháu đều là nông
dân.
Bác
giải thích: Vì các chú mỗi người một quê khác nhau, thời tiết mỗi vùng một
khác. Kinh nghiệm trồng trọt cũng khác nên tranh cãi là bình thường. Song phải
chú ý tới người xưa đã dạy ta rằng: “Bao giờ đom đóm bay ra, cành xoan chân chó
trồng cà mới nên...” Thế các chú thấy cây xoan nảy mầm tức là thò chân chó chưa”
- Dạ, chưa ạ
- Thế thì chưa trồng cà được
đâu!
Trích theo sách: Chuyện kể về Bác Hồ, Nxb Công
an nhân dân, H.2009
Bác Hồ thăm, tìm hiểu thực tế sản xuất của nông dân xã Ái Quốc (Hải Hưng) năm 1958.
Bác đi làm ruộng với nông
dân
Bác sinh ra và lớn lên trong gia đình nhà
nho, nhưng là nhà nho có nguồn gốc nông dân. Thời gian dài từ tấm bé đến tuổi
học trò Bác sống ở quê giữa những người nghèo khổ một nắng hai sương ngoài đồng
nên Người hiểu sâu sắc nỗi khổ, nỗi vất vả của người nông dân. Những việc của
nghề nông đối với Bác cũng không có gì xa lạ. Thời kỳ hoạt động cách mạng ở
nước ngoài, khi Người được bầu vào Ban chấp hành Quốc tế nông dân, có người
thắc mắc, hoài nghi vì Bác khai trong lý lịch là xuất thân nhà nho, trí thức.
Nghề nghiệp chính là thuỷ thủ, họ e rằng Bác sẽ không có điều kiện để am hiểu
các vấn đề nông dân. Sau khi bế mạc Đại hội nông dân, các đại biểu đi thǎm một
nông trang, thấy nông dân đang lao động, Bác cũng xắn quần xuống giúp một nông
dân đang làm ruộng, việc nhà nông đối với Bác không gì khó khǎn, trong khi các
đại biểu nhiều người đang lúng túng; thì Bác làm nhanh nhẹn như một nông dân
thực thụ, trước con mắt thán phục của mọi người. Có ai biết một thời Bác ra
đồng cùng người dân quê làng Sen làm lụng, hay những lúc đi trồng nho cùng
những người nông dân nghèo khổ ở Bruklin nước Mỹ.
Trên mặt trận báo chí công luận, Bác là người
viết nhiều về nông dân, vạch mặt tố cáo sự bóc lột sức lao động người nông dân
của địa chủ cường hào phong kiến, đẩy nông dân vào con đường bần cùng bằng sưu
cao thuế nặng. Bác đã tìm ra và chính Người đã thực hiện cương lĩnh giải phóng
người nông dân bằng cuộc cách mạng Tháng Tám lịch sử. Người đã để lại một di
sản có một không hai trong lịch sử loài người chân dung một lãnh tụ bên người
nông dân. Người Nga, một dân tộc đi đầu tiên phong, biến người nông dân lao
động "thành người tự do", nhưng nay họ chưa đi đến nơi đã tạm dừng.
Còn người nông dân Việt Nam chúng ta luôn có Bác Hồ cùng đi bởi không chỉ tư
tưởng Bác soi đường mà hình ảnh Bác dung dị bên người nông dân mãi mãi là chỗ
dựa tinh thần để tự hào, tin tưởng và làm theo lời Người.
Cùng đổ mồ hôi với người nông dân mới quý hạt
gạo, củ khoai, mới xót lòng khi bão lụt ập đến cướp đi thành quả lao động vất
vả của người dân trên ruộng đồng. Ngay sau khi giành được chính quyền, tuy bận
trǎm công nghìn việc Bác vẫn dành nhiều thời gian, không chỉ nhắc nhở các địa
phương đắp đê chống bão lụt, mà còn trực tiếp xuống tận các xã để đôn đốc, kiểm
tra công việc. Biết tin đê sông Hồng ở khu vực Hưng Yên, Thái Bình bị vỡ, Bác
trực tiếp xuống kiểm tra việc khắc phục hậu quả để có biện pháp kịp thời cùng
chính quyền địa phương vận động giúp đỡ nhân dân vượt qua khó khǎn, Bác hỏi cặn
kẽ có mấy người bị nạn, trước hết phải lo cái ǎn để họ khỏi đứt bữa, sau đến
nơi ở và ổn định sinh hoạt cho mọi người, tập trung nhân tài vật lực để đắp lại
chỗ đê bị vỡ. Bác hứa khi nào đắp xong Bác sẽ xuống thǎm. Thế rồi, giữ đúng lời
hứa, bốn tháng sau Bác xuống cắt bǎng khánh thành chỗ đê vừa mới đắp. Bác đi
xem kiểm tra một lượt, nhìn chỗ giáp ranh đê mới đê cũ, Người nhắc nhở phải
tǎng cường gia cố mới an toàn. Bác vừa đi vừa nhún thử độ lún, Bác khen đắp
nhanh nhưng chưa lèn chặt, cần tǎng cường thêm lực lượng để đầm thật kỹ mới bảo
đảm lâu dài.
Thay mặt "Ban đời sống" mới nhà vǎn
Nguyễn Huy Tưởng đến báo cáo với Bác là hoạt động của Ban dựa trên 3 nguyên
tắc: dân tộc, dân chủ và khoa học, nghe xong, Bác liền nói: "Trong đồng
bào ta chưa mấy người hiểu những từ chú nói mà hiện nay họ cần là cần cái
này", vừa nói Bác vừa chỉ tay vào bụng, "phải có cái ǎn đã, nếu không
có ǎn không làm gì được. Hoạt động của ban "Đời sống mới" cũng phải
tập trung cái đó đã, vận động bà con "lá lành đùm lá rách", tǎng gia
sản xuất, cứu đói". Hậu quả nạn đói nǎm 1945 như một bóng ma ghê rợn phủ
lên cuộc sống đói rách của người nông dân, càng làm không khí ảm đạm khó khǎn
thêm, trên cương vị Chủ tịch nước, Bác đi xuống các địa phương như Ninh Bình,
Thái Bình... để đôn đốc việc cứu đói, tổ chức tǎng gia sản xuất, đắp đê phòng
chống thiên tai... Một lần trong cuộc họp, bàn chống đói, Bác nói: "Các
chú biết không, người xưa nói "dân dĩ thực vi thiên", có đồng chí
tưởng Bác nói nhầm bèn chữa lại thưa Bác "dân dĩ thực vi tiên chứ ạ",
Bác cười và giải thích: "Bác nói "Dân dĩ thực vi thiên" người
xưa dạy "dân lấy cái ǎn làm trời", Đảng, Chính phủ phải lo cái ǎn cho
dân không được để dân đói. Đó là Bác lấy lời của Lục sinh nói với Hán Cao Tổ
"Nhà vua lấy dân làm trời, dân lấy cái ǎn làm trời". Bác dạy thật chí
lý.
Nǎm 1955, nghe tin lũ lụt lớn ở Kiến An, gây
thiệt hại lớn về người và của cho nhân dân. Bác cho gọi đồng chí có trách nhiệm
lên hỏi cụ thể. Bác hỏi, xã Hoà Nghĩa thiệt hại mấy người chết, nhà cừa trưởng
học bệnh xá bị đổ bao nhiêu, khi nghe báo cáo con số thiệt hại cụ thể, Bác rất
lo lắng và rơm rớm nước mắt nhất là biết có nhiều gia đình chết người và trôi
nhà cửa. Bác cǎn dặn phải có phương án tỷ mỉ khắc phục hậu quả thiệt hại. Người
chỉ thị Tỉnh ủy phải trực tiếp chỉ đạo và dặn đi dặn lại "trước hết phải
lo cái ǎn, nơi ở cho người bị nạn, tuyệt đối không để một người bị đói".
Cứ đến mùa nước lũ, hay kỳ hạn hán Bác thường trực tiếp xuống địa phương tham gia
"chống trời" cùng nhân dân. Nhớ lần Bác về công trường Đại thuỷ nông
Bắc-Hưng-Hải, Bác xuống công trường tham gia lao động như một người dân. Trên
đường đi, thấy một chị đang đẩy chiếc xe cút kít nặng nề lên dốc, Bác vội chạy
đến đẩy giúp chị. Bác hoà vào không khí lao động khẩn trương của công trường
như tǎng thêm sức mạnh cho mọi người hǎng say quên mình trong không khí vui vẻ.
Lần Bác về Hải Hưng tham gia chống hạn với
nông dân, nghe tin Bác về các đồng chí cán bộ tỉnh tổ chức đón Bác long trọng,
Bác không hài lòng, Bác phê bình ngay: "Bác về là đi chống hạn chứ có phải
đi chơi đâu mà đón tiếp". Bác ǎn mặc quần áo như một lão nông thực sự
Người đi rất nhanh đến chỗ nhân dân đang đào mương, Bác vội xắn quần xắn tay áo
xuống cùng đào đất với bà con để lại phía sau các "quan cách mạng"
trong những bộ quần áo bảnh bao đang lúng túng hổ thẹn trước dân chúng; cuối
cùng tất cả cùng ào xuống đào đất với bà con theo gương Bác. Bác không nói,
không hô hào, nhưng Người đã làm cuộc "cách mạng" cho "các
quan" trước muôn dân. Bác ǎn cơm chung với mọi người tại nơi đang đào
mương. Thấy người xới cơm, xới bát nào cũng vơi, Bác nói vui: " Chú xới
cơm thế này thì công việc làm sao cho đầy được" Bữa ǎn có Bác thêm vui hẳn
lên. Bác hỏi chuyện: "Các chú có biết nấu nướng không?". Mỗi người kể
theo cách hiểu của mình. Bác thừa hiểu chẳng có ai ở nhà thực sự giúp vợ nấu ǎn
cả, nên nghe nói nấu nướng sao thì kể vậy. Rồi Bác kể chuyện hồi xưa Bác làm
phụ bếp thế nào nên biết nấu nướng, Bác nói nghề nấu ǎn ai biết nấu kể là biết
ngay, còn ai chỉ nghe hoặc nhìn thấy thì không thể bịp được người khác, vì kỹ
thuật nấu ǎn quan trọng là chỗ này - Bác chỉ vào mũi, chứ không phải chỗ này -
Bác chỉ vào mắt và tai. Bác nói tiếp, vì sao mọi người phải biết nấu ǎn là vì
vừa giúp được "cô ấy" có thời gian học tập và nuôi dạy con cái, vừa
rèn luyện mình, chữa cái bệnh hão, bệnh sĩ, bệnh gia trưởng thâm cǎn cố đế, cho
việc bếp núc là của đàn bà. Hơn nưa khi tự mình nấu thì mình ǎn ngon hơn, thích
ǎn món nào thì làm món ấy. Chuyện vui, nhưng Bác giáo dục đạo đức con người,
đạo đức cộng sản trong cán bộ. Bác lo lắng quan tâm đến sự tiến bộ của cán bộ
từ những việc làm bình thường nhất, nhưng chính đó là những xuất phát điểm của
đạo đức chân chính, mà mọi người cán bộ muốn dân tin thì rõi vào để tự xem xét,
rèn luyện hoàn thiện mình.
Bác về Hà Đông chống hạn, khi đến một con
mương chắn ngang đường, đồng chí Chủ tịch tỉnh mời Bác đi vòng đến chỗ dễ qua
hơn. Nhìn xuống thấy đồng chí Chủ tịch tỉnh đi đôi dày bóng lộn, Bác bảo:
"Chú cứ đi đường ấy" nói rồi, Bác cởi dép lội tắt qua cho nhanh để
đến với nông dân đang tát nước chống hạn. Sang bờ bên kia, Bác bảo mọi người
cùng tát nước giúp dân. Bác chỉ một thanh niên ǎn mặc bảnh bao cùng tát nước
với Bác, nhưng đồng chí này không biết tát nước, đồng chí Bí thư tỉnh đỡ lời:
"Thưa Bác, đồng chí này là nhà báo ạ". Bác cười và nói: "Nhà báo
của nông dân thì phải biết lao động như nông dân thì viết mới đúng được".
Mỗi người dân chúng ta ai cũng được xem hình
ảnh Bác đang đạp nước trên guồng chống úng, ghi nhận trong ta hình ảnh Bác hoà
mình với nỗi vất vả một nắng hai sương của người nông dân. Khắc sâu trong ta
tâm niệm Chủ tịch nước cũng là một công dân, một người lao động trong triệu
triệu người không có gì cách biệt. Đó là hình ảnh được ghi lại vào nǎm 1960 Bác
về chống úng tại xã Hiệp Lực. Vừa đạp guồng nước, Bác nhắc nên lắp ổ bi vào
trục để người đạp đỡ vất vả, mà nǎng suất cao hơn. Bác hỏi các cô thanh niên có
biết hát đối đáp không, rồi Bác lẩy Kiều: "Trǎm nǎm trông cõi người ta,
chống úng thắng lợi mới là người ngoan". Bác bảo các cô lẩy tiếp, các cô
vì mải ngắm Bác nên không chuẩn bị không lẩy tiếp được chỉ biết vỗ tay, và xin
mắc nợ với Bác. Bác nói: "Muốn lao động đỡ mệt và có sức mạnh, thanh niên
nên tổ chức vǎn nghệ".
Nǎm 1958, Bác về Nam Định dự Hội nghị "Bàn về
sản xuất, nông nghiệp". Bác chǎm chú lắng nghe các bản báo cáo thành tích
của các đơn vị. Bác chú ý bản báo cáo nói về cách làm các loại phân bón. Bác
đứng lên nhìn khắp hội trường và hỏi to: "Chú nào gánh bùn đổ-cho hai sào
lúa có đây không?", không có ai đứng dậy. Một đồng chí cán bộ tỉnh uỷ báo
cáo, là người nông dân đó không thuộc diện tham dự hội nghị này. Bác phê bình
và yêu cầu cho người đó đến dự hội nghị ngay. Bác hỏi chị em phụ nữ ở đây có
đội phân nữa không? Các đồng chí cán bộ tỉnh chưa dám báo cáo Bác ngay, may có
chị đại biểu nữ đỡ lời: "Thưa Bác, chị em ở đây không quen gánh nên cái gì
cung đội ạ", Bác dặn: "Nên tìm cách cải tiến vận chuyển bằng xe để đỡ
cho chị em về lâu dài".
Nǎm 1963, Bác về chống hạn ở Nghiêm Xuân
(huyện Thường Tín) hôm đó Bác đến sớm, đồng bào còn vắng, tiện đường Bác xuống
khu dân cư, hỏi thǎm dân- Bác vào một nhà dân thǎm và hỏi tết vừa qua gia đình
đón, tết có vui không. Có cụ già hơn 60 tuổi thưa với Bác là ǎn tết không vui.
Bác hỏi vì sao, cụ kể lại gia đình từ xưa có ngôi nhà gần đường, vừa qua Huyện
có lệnh đuổi bà đi để mở đường không bồi thường, cũng không chỉ cho gia đình chuyển
đi đâu, vì thế gia đình ǎn tết không vui, người ra lệnh ấy là ông Chủ tịch
huyện. Bác lắng nghe mà vẻ mặt không vui Bác bảo, làm người cán bộ như vậy là
không xứng đáng không khác gì cường hào xưa. Sau đó Bác chỉ thị phải điều tra
làm rõ ngay. Vị Chủ tịch kia bị kỷ luật. Lòng dân rất hả dạ và nhắc mãi chuyện
đó như làm gương cho cán bộ đối với dân phải làm gì. Hơn nữa hôm đó Bác tham
gia chống hạn với dân, trời nắng to có đồng chí cầm ô che cho Bác, Bác bảo:
"Dân chịu được thì Bác cũng chịu được, chú làm như Bác là ông quan thời
xưa". Trên đường đi chống hạn giúp dân, Bác thấy đi trước Bác có xe công
an còi inh ỏi dẹp đường, Bác cho dừng xe và lệnh cho xe công an dừng lại, Bác
mới đi tiếp. Bác phê bình: "Bác xuống với dân để chống hạn mà các chú làm
cho dân họ sợ thì xuống làm gì?".
Trong di sản tư tưởng của Bác, vấn đề giải
phóng nông dân chiếm một vị trí quan trọng. Trên hành trình đi tìm đường cứu
nước, tiếp cận với nhiều xu hướng chính trị của loài người, Bác phân tích lựa
chọn tiếp thu những gì tinh túy phù hợp với hoàn cảnh đất nước và vận dụng một
cách sáng tạo những tinh hoa đó vào hoàn cảnh cụ thể của nước nhà. Người đi đến
kết luận vấn đề giải phóng dân tộc ở Việt Nam thực chất là vấn đề nông dân.
Nông dân vừa là động lực nhưng cũng là đối tượng của cách mạng. Cho nên Bác
dành nhiều trí tuệ, công sức và thời gian cho vấn đề nông dân. Từ tấm bé, xuất
phát từ trực quan sinh động, trước cảnh người nông dân làng quê khổ cực vì bị
áp bức, bóc lột mà nghèo đói, từ đó mới có nhận thức do mất nước, không có tự
do và động cơ ra đi tìm đường cứu nước một phần cũng được xuất phát từ vấn đề
nông dân. Thời kỳ hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Bác nói nhiều viết nhiều;
đấu tranh không mệt mỏi cho vấn đề giải phóng dân tộc, cho quyền lợi người nông
dân. Bác bênh vực, xây dựng cho mình một hệ thống quan điểm về vấn đề nông dân
trong hệ tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Bác đứng về nông
dân, bênh vực quyền lợi củá nông dân nhưng không sa vào nông dân chủ nghĩa,
không quá tả, không xô bồ khi phân tích mặt tốt, mặt phải hoàn thiện của nông
dân trong cách nạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Những nǎm tháng cuối đời Bác, tuy sức khoẻ
yếu nhưng Người dành nhiều thời gian làm việc với các đồng chí phụ trách nông
nghiệp. Họp Bộ Chính trị, hay các buổi làm việc về nông nghiệp Bác thường nhắc
bản Điều lệ Hợp tác xã. Bác bảo công nhân có ngày kỷ niệm thì nông dân cũng
phải có ngày kỷ niệm. Nên lấy ngày ban hành Điều lệ Hợp tác xã làm ngày kỷ niệm
cho nông dân. Bác dặn viết bản Điều lệ sao cho nông dân ít học cũng hiểu được.
Sau khi đọc bản dự thảo, Bác nói đây là bản dùng cho cán bộ, còn đối với xã
viên thì viết phải tóm tắt hơn, dễ hiểu hơn. Bác đọc và sửa chữa rất kỹ, có chỗ
nào, chữ nghĩa cầu kỳ khó hiểu Bác đều sửa lại. Số thứ tự các chương đánh số La
mã, Bác sửa lại "Chương Một... Hai...". Câu "Nhà nước hết lòng
giúp đỡ" Bác bỏ chữ "hết lòng" vì thừa. Câu "xã viên phải
góp ruộng đất, trâu bò, các công cụ chủ yếu", Bác sửa cho chặt chẽ hơn:
"Xã viên phải góp ruộng đất, góp cổ phần, để lại trâu bò và các công cụ chủ
yếu" chữ "để lại" vừa có tình và có nghĩa giữa xã viên và Hợp
tác xã. Trong cuộc họp Bộ Chính trị bàn về nông nghiệp, Bác đề nghị: "Quỹ
tích luỹ để khoảng 7 - 10% thu nhập Hợp tác xã là quá cao, đời sống dân còn
thấp nên tập trung nâng mức sống của dân". Bộ Chính trị nhất trí chỉ để
quỹ tích luỹ 5 - 10%. Sau đó Bác yêu cầu chuyển nội dung Bản Điều lệ sang diễn
ca phát trên đài phát thanh cho dân dễ thuộc dễ nhớ để làm theo.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét